Chương 14

Sau kỳ nghỉ cuối tuần, Carl nhận được một lời nhắn từ đội phó đội trọng án. Nó được gắn trên máy tính của anh.

“Tôi đã báo với Bak là anh đang điều tra vụ Merete Lynggaard. Từng là thành viên của Đội Phản ứng nhanh, Bak được tham gia vụ đó vào cuối giai đoạn điều tra, nên anh ta nắm khá rõ các chi tiết. Hiện tại, Bak đang bận theo vụ sát hại người đi xe đạp, nhưng anh ta sẽ chuẩn bị để họp với anh trong thời hạn sớm nhất có thể. Lars Bjorn”

Carl hừ mũi. Trong thời hạn sớm nhất có thể. Anh ta tưởng mình là ai chứ, cái tay Bak chết tiệt ấy? Một kẻ đạo đức giả, vênh váo, khó chịu. Quan liêu và ba phải. Vợ của anh ta chắc phải điền đơn yêu cầu mỗi khi muốn được chồng chiều chuộng trên giường.

Vậy là Bak đã điều tra một vụ án bế tắc. Càng tốt. Carl càng có động lực để tự mình tháo gỡ vụ này. Anh cầm hồ sơ của vụ án lên và bảo Assad pha cà phê.

- Đừng đậm như lần trước nhé. - Anh yêu cầu, trong đầu thầm nghĩ tới khoảng cách giữa phòng mình và buồng vệ sinh.

Hồ sơ vụ Lynggaard rõ ràng là một trong những hồ sơ mạch lạc và hoàn chỉnh nhất mà Carl từng thấy. Nó chứa đựng bản sao của tất cả mọi thứ, từ bản giám định sức khỏe của người em trai, Uffe, cho đến biên bản các buổi thẩm vấn của cảnh sát, các bài báo, một số đoạn phim phỏng vấn Merete Lynggaard, cũng như các lời khai chi tiết của những đồng nghiệp và hành khách đã trông thấy hai chị em trên boong tàu. Trong hồ sơ còn có ảnh chụp boong tàu, hàng lan can và khoảng cách từ đó xuống tới mặt nước. Bản phân tích các dấu vân tay tại chỗ cô gái mất tích cũng được đính kèm, cùng với danh sách địa chỉ của rất nhiều hành khách đã từng chụp ảnh trên con tàu phà của hãng Scandlines. Thậm chí trong hồ sơ còn có cả bản sao nhật ký hải trình của con tàu, trong đó cho thấy thuyền trưởng đã phản ứng ra sao trong toàn bộ sự việc. Nhưng chẳng có thứ gì cung cấp cho Carl một manh mối thực sự.

Mình cần xem các cuộn băng video, anh nghĩ bụng sau khi đã đọc xong chỗ tài liệu. Anh chán nản nhìn cái đầu đĩa DVD.

- Tôi có việc cho anh đây, Assad. - Carl nói ngay khi anh chàng trợ lý quay lại cùng một tách cà phê bốc khói. - Anh hãy lên chỗ đội trọng án trên tầng hai, đi qua cánh cửa màu xanh lá cây và theo hành lang màu đỏ tới một đoạn phình…

Assad đưa tách cà phê cho Carl. Mùi của nó ngửi từ xa thôi đã dự báo một chút rắc rối cho dạ dày của anh.

- Đoạn phình? - Assad nhíu mày hỏi lại.

- Đúng vậy. Đó là nơi hành lang phình to ra. Hãy đến gặp người phụ nữ tóc vàng. Tên cô ấy là Lis. Cô ấy rất dễ thương. Hãy nói là anh cần mượn một cái đầu máy cho Carl Mørck. Chúng tôi khá thân, cô ấy và tôi. - Carl nháy mắt với Assad và được anh chàng nháy mắt đáp lại.

- Nhưng nếu chỉ có bà tóc nâu ở đó thì anh hãy quên ngay mọi chuyện và quay xuống đây. Assad gật đầu.

- Nhớ lấy cả dây cáp nữa nhé. - Carl gọi với theo trong lúc Assad lững thững bước đi giữa vùng ánh sáng đèn huỳnh quang của hành lang đường hầm.

- Chỉ có bà tóc nâu ngồi ở đó. - Assad thông báo khi quay lại. - Bà ấy đưa cho tôi hai cái đầu máy và bảo là không cần đem trả. - Anh cười toét miệng. - Bà ấy cũng khá đẹp.

Carl lắc đầu. Hẳn là một sự thay đổi nhân sự trong ban thư ký.

Đoạn video đầu tiên là từ một chương trình thời sự được phát sóng ngày 20 tháng Mười hai năm 2001. Trong đoạn băng, Merete Lynggaard bình luận về hội nghị sức khỏe và môi trường mà cô tham dự tại London. Cuộc phỏng vấn chủ yếu xoay quanh những bàn luận giữa cô với nghị sĩ Bruce Jansen về thái độ của Mỹ đối với WHO và nghị định thư Kyoto, thái độ mà theo quan điểm của Merete sẽ bảo đảm cho một tương lai xán lạn. Không hiểu cô nàng này có dễ bị bịp không nữa, Carl tự nhủ. Nhưng ngoài một chút ngây thơ, rõ ràng là do tuổi đời còn trẻ, Merete Lynggaard tỏ ra là một người nghiêm túc, chuyên nghiệp và tỉ mỉ. Cô tỏa sáng hơn nhiều so với bộ trưởng Bộ Nội vụ và Y tế vừa mới đắc cử đứng bên cạnh, người trông chẳng khác nào một giáo viên trung học trong một bộ phim từ thời thập niên sáu mươi.

- Một quý cô thanh lịch và xinh đẹp. - Assad bình phẩm từ trên ngưỡng cửa.

Đoạn video thứ hai được quay vào ngày 21 tháng Hai năm 2002. Lên tiếng thay mặt cho phát ngôn viên về môi trường của đảng, Merete bình luận về báo cáo môi trường đầy mơ hồ và chủ quan của Bjarke Ornfelt tại ủy ban Chống gian lận khoa học.

Tên ủy ban này ngộ ghê, Carl nghĩ bụng. Lần này là một Merete Lynggaard hoàn toàn khác xuất hiện trên màn hình. Thật hơn, bớt đi phần nào kiểu cách của một nhà chính trị.

- Cô ấy thực sự rất, rất đẹp. - Assad nói.

Carl liếc nhìn anh ta. Có vẻ như diện mạo của một người phụ nữ là yếu tố đặc biệt quan trọng trong con mắt của Assad. Nhưng anh cũng đồng ý với Assad. Merete tỏa ra một sức hút kỳ lạ trong đoạn phỏng vấn. Cô cho thấy sức hấp dẫn mạnh mẽ mà gần như tất cả phụ nữ đều có khi mọi chuyện hoàn toàn suôn sẻ đối với họ. Một phát hiện quan trọng, nhưng cũng gây bối rối.

- Cô ta đang mang bầu à? - Assad hỏi. Căn cứ theo số lượng thành viên gia đình trong hai tấm ảnh của mình, Assad có vẻ rất quen thuộc với tình trạng bầu bì của phụ nữ.

Carl châm một điếu thuốc và lật xem hồ sơ một lần nữa. Dĩ nhiên là chẳng có báo cáo pháp y nào để anh có thể giải đáp thắc mắc của Assad, vì thi thể chưa bao giờ được tìm thấy. Khi anh điểm qua các bài báo, có những manh mối rõ ràng cho thấy Merete không đặc biệt quan tâm đến đàn ông, mặt dù điều đó không loại trừ được khả năng cô mang thai. Nhưng khi xem xét kỹ, anh nhận ra Merete chưa bao giờ bị chụp ảnh đang tiếp xúc gần gũi với bất kỳ ai, đàn ông lẫn phụ nữ.

- Có lẽ cô ta chỉ mới yêu. - Assad vừa nói vừa phẩy tay xua khói thuốc lá. Anh tiến lại gần màn hình đến mức gần như dán vào đó. - Cái mảng đỏ xinh xinh trên má cô ta. Anh nhìn đi!

Carl lắc đầu.

- Tôi dám cá ngày hôm đó nhiệt độ không quá hai độ C. Những cuộc phỏng vấn ngoài trời làm cho các chính trị gia trông khỏe khoắn hơn. Nếu không thì họ đâu có đồng ý phỏng vấn, hả Assad?

Nhưng anh chàng trợ lý nói đúng. Có một sự khác biệt rõ rệt giữa lần phỏng vấn trước đó và lần này. Một điều gì đó đã xảy đến với Merete trong khoảng thời gian giữa hai lần. Không thể có chuyện cô ta tươi tỉnh như thế vì Bjarke Ornfelt, một gã vận động hành lang lập dị chuyện chẻ nhỏ nguyên nhân của các thảm họa tự nhiên thành những phân tử không thể nhận diện được.

Carl nhìn vào khoảng không một lúc. Trong mọi vụ án luôn có một thời khắc mà người điều tra ao ước được gặp nạn nhân còn sống. Lần này nó đến sớm hơn thường lệ.

- Assad, gọi điện ngay cho cái viện Egely đó, nơi em trai của Merete Lynggaard đang ở, và lấy hẹn cho phó chánh thanh tra hình sự Morck.

- Phó chánh thanh tra hình sự Morck? Là ai vậy?

Carl trở ngón tay vào thái dương của mình. Anh chàng này bị chậm hiểu à?

- Vậy anh nghĩ là ai? Assad lắc đầu.

- À, trong đầu tôi nghĩ anh phải là phó chánh thanh tra cảnh sát chứ. Chẳng phải bây giờ người ta dùng cách gọi đó từ sau cuộc cải tổ ngành cảnh sát à?

Carl hít một hơi thật sâu. Cải với chả tổ. Anh đếch thèm quan tâm tới nó.

Tay giám đốc ở Egely gọi lại mười phút sau đó, thậm chí chẳng buồn che giấu sự ngạc nhiên của mình và muốn hỏi lại cho rõ sự tình. Đương nhiên là Assad đã ứng biến hơi lố, nhưng Carl có thể trông mong gì hơn từ người trợ lý của mình, tiến sĩ chuyên ngành găng tay cao su và xô nhựa? Nói cho cùng, ai mà chẳng phải bò trườn trước khi biết đi?

Anh liếc nhìn Assad và gật đầu khích lệ khi anh chàng ngẩng mặt lên khỏi ô số Sudoku.

Carl chỉ mất ba mươi giây để giải thích cho tay giám đốc. Ông ta cung cấp những câu trả lời rành mạch và ngắn gọn. Uffe Lynggaard chưa bao giờ nói một chữ, nên ngài phó chánh thanh tra có cố trò chuyện với cậu ta cũng sẽ chẳng thu được điều gì. Ngoài ra, mặc dù Uffe vừa câm lại vừa khó tiếp cận, cậu ta chưa có người giám hộ hợp pháp. Và do cậu ta chưa cho phép bất kỳ ai ở viện phát ngôn thay cho mình, nên họ không thể nói được điều gì. Mèo lại hoàn mèo.

- Tôi thừa biết quy trình mà. Tất nhiên tôi không có ý định lách luật. Nhưng tôi đang điều tra vụ mất tích của chị gái cậu ta, nên tôi nghĩ Uffe sẽ chỉ có lợi từ việc nói chuyện với tôi.

- Nhưng cậu ta không nói chuyện được. Tôi vừa mới nói với anh đấy thôi.

- Thật ra, nhiều người mà chúng tôi thẩm vấn cũng đâu có chịu nói, nhưng chúng tôi vẫn xoay xở được.

Đơn vị Q chúng tôi rất giỏi giải mã các dấu hiệu ngầm.

- Đơn vị Q?

- Phải. Chúng tôi là một đơn vị điều tra cao cấp của cảnh sát. Khi nào tôi có thể đến gặp cậu ta?

Carl nghe thấy đầu dây bên kia thở dài. Tay giám đốc không ngu. Ông ta biết nhận ra một gã ngoan cố khi gặp phải.

- Để tôi xem có thể làm được gì. Tôi sẽ gọi lại cho anh. - Ông ta nói.

- Anh đã nói gì khi gọi điện cho ông ta vậy, Assad? - Carl hỏi ngay sau khi gác điện thoại.

- Ông ta á? Tôi nói là anh sẽ chỉ nói chuyện với người quản lý, chứ không phải giám đốc.



- Giám đốc chính là người quản lý mà, Assad.

Carl hít một hơi thật sâu, rồi đứng dậy, tiến đến chỗ anh chàng trợ lý. Anh nhìn thẳng vào mắt Assad.

- Anh không hiểu chữ “giám đốc” có nghĩa là gì à? Giám đốc cũng là một dạng ông chủ. Hai người gật gù với nhau. Vậy là ổn rồi.

- Assad, ngày mai tôi muốn anh lái xe đến Allerod đón tôi. Tôi sống tại đó. Chúng ta sẽ đi một chuyến.

Anh có hiểu không? Assad nhún vai.

- Và sẽ không có vấn đề gì với thứ này khi chúng ta lái xe đi loanh quanh, đúng không? - Carl chỉ vào tấm thảm cầu nguyện.

- Tôi có thể cuộn nó lại.

- Được thôi. Nhưng làm sao anh biết hướng nào là hướng của Mecca?

Assad chỉ tay vào đầu mình, cứ như thể anh chàng có một thiết bị GPS được cấy trong đó.

- Và trong trường hợp người ta không biết định hướng, thì vẫn luôn có cái này. - Assad nhấc một tờ tạp chí trên giá sách, cho thấy một cái la bàn nằm bên dưới.

- Hừm. - Carl nói và đưa mắt nhìn mấy cái ống sắt trên trần nhà. - Nhưng cái la bàn đó đâu có hoạt động được ở dưới này?

Assad lại chỉ tay vào đầu mình.

- Thôi được, tôi đoán anh có biệt tài định hướng. Và anh không cần phải thật chính xác, đúng không?

- Allah rất vĩ đại và có đôi vai rộng lớn.

Carl trề môi. Tất nhiên Allah là như thế rồi. Anh đang nghĩ lẩn thẩn gì thế này?

Bốn cặp mắt thâm quầng quay lại nhìn Carl khi anh bước vào phòng của tổ trưởng Bak. Không nghi ngờ gì nữa, họ đang chịu áp lực rất lớn. Trên tường có treo một bản đồ công viên Valby cỡ lớn với các chi tiết mấu chốt của vụ án mạng: hiện trường; nơi tìm thấy hung khí - một con dao cạo kiểu cổ điển; nơi nhân chứng nhìn thấy nạn nhân và kẻ tình nghi đi cùng nhau; và lộ trình di chuyển của nhân chứng xuyên qua công viên. Tất cả đều được đo đạc và phân tích tỉ mỉ, nhưng chẳng nói lên điều gì.

- Cuộc trò chuyện của chúng ta phải tạm gác lại thôi, Carl. - Bak vừa nói vừa xắn tay áo.

Chiếc áo khoác da màu đen của Bak là thứ mà anh ta thừa hưởng từ người đội trưởng đội trọng án trước đây. Đó cũng là món đồ mà anh ta trân quý nhất. Người mặc chiếc áo đó phải là người rất đặc biệt, nên anh ta không bao giờ rời xa nó. Máy sưởi đang tải hơi nóng ít nhất bốn mươi độ vào trong phòng, nhưng rõ ràng anh ta sắp rời phòng vào bất cứ lúc nào.

Carl quan sát những tấm ảnh được gắn trên bảng ghim ở phía sau lưng các cảnh sát. Trông chúng không được đẹp mắt cho lắm. Thi thể của nạn nhân rõ ràng đã bị cắt xẻo sau khi chết. Có thể thấy những vết cắt sâu trên ngực, một nửa vành tai bị mất. Trên chiếc áo thun trắng, một chữ thập được vẽ bằng máu của chính nạn nhân. Carl đoán nửa cái tai được sử dụng như cây bút. Chiếc xe đạp và bãi cỏ đọng sương giá xung quanh nó đã bị giẫm đạp, chiếc xe cũng bị đập nát, đến nỗi các nan hoa của bánh xe trước bị hư hỏng toàn bộ. Cái túi của nạn nhân nằm trên mặt đất, sách kinh tế vương vãi khắp nơi.

- Chuyện của chúng ta phải tạm gác lại á? Được thôi. Nhưng trước đó anh có thể tạm ngưng dồn ép bộ não phẳng của mình để nói cho tôi biết nhân chứng đã kể gì về người mà chị ta trông thấy nói chuyện với nạn nhân trước khi án mạng xảy ra được không?

Bốn cảnh sát nhìn Carl như thể anh vừa xâm phạm mồ mả nhà họ. Đôi mắt của Bak ánh lên sự chết chóc.

- Không phải việc của anh, Carl. Chúng ta sẽ nói chuyện sau. Anh tin hay không thì tùy, nhưng ở đây

chúng tôi đang rất bận.

Carl gật đầu.

- Ờ, phải rồi. Cứ nhìn mấy bộ mặt no đủ của các anh là biết các anh đang rất bận. Tôi đoán các anh đã cử người đi lục soát nơi ở của nhân chứng sau khi chị ta nhập viện, đúng không?

Bốn người kia nhìn nhau. Có sự bực bội, nhưng cũng có cả vẻ thắc mắc trong ánh mắt họ. Vậy là họ đã không làm thế. Giỏi thật.

Marcus Jacobsen chỉ mới vừa ngồi xuống ghế trong phòng làm việc của ông thì Carl bước vào. Như thường lệ, vẻ ngoài của ông nom rất chải chuốt. Đường rẽ ngôi trên tóc ông thẳng tưng như kẻ chỉ, đôi mắt ông tập trung và cảnh giác.

- Marcus này, ông có cho lục soát nhà của nhân chứng sau khi chị ta tìm cách tự tử hay không? - Carl hỏi, tay chỉ vào tập hồ sơ đang nằm giữa bàn làm việc của ông đội trưởng.

- Ý anh là sao?

- Các ông chưa tìm được mảnh tai bị mất của nạn nhân, đúng không?

- Phải, chúng tôi chưa tìm thấy. Anh đang định nói là nó có thể nằm ở nhà của nhân chứng á?

- Sếp ơi sếp, nếu là ông, tôi sẽ đi tìm nó ở đó.

- Nếu thực sự nó được gửi đến chỗ chị ta, tôi tin chắc chị ta đã tống khứ nó đi rồi.

- Vậy thì tôi sẽ bới tung thùng rác và kiểm tra phòng vệ sinh.

- Chắc nó đã bị giật nước trôi mất rồi, Carl.

- Ông chưa nghe người ta nói là có những thứ thối tha cứ nổi lên trở lại mặc dù bị giật nước nhiều lần à?

- Thôi được rồi Carl. Tôi sẽ xem xét chuyện này.

- Niềm kiêu hãnh của trụ sở, ngài Bak ba phải, không muốn nói chuyện với tôi.

- Vậy thì anh phải đợi thôi, Carl. Vụ của anh chẳng chạy mất đâu mà sợ.

- Tôi chỉ muốn ông biết vậy thôi. Nó sẽ làm tôi bị chậm tiến độ.

- Vậy thì tôi đề nghị anh xem xét một vụ án khác trong thời gian chờ đợi. - Marcus cầm cây bút lên và gõ gõ nó xuống mép bàn. - Này, về cái tay lập dị làm việc cùng anh ở dưới đó… Anh không định để anh ta tham gia vào công tác điều tra đấy chứ?

- Ông biết đấy, do quy mô quá lớn của cái đơn vị mà tôi đang phụ trách, anh ta ít có khả năng nghe ngóng được bất cứ chuyện gì.

Marcus ném cây bút của mình xuống một chồng tài liệu.

- Carl, anh đã tuyên thệ giữ bí mật, còn anh ta không phải là một cảnh sát viên. Anh nên nhớ điều đó. Carl gật đầu. Anh đã đủ lớn để biết phải nói những chuyện gì ở đâu.

- Làm thế quái nào mà ông tìm ra Assad vậy? Qua văn phòng môi giới việc làm à?

- Tôi không biết. Hỏi Lars Bjorn ấy. Không thì hỏi chính anh ta. Carl giơ một ngón tay lên.



- Nhân tiện, tôi muốn có một bản sơ đồ tầng hầm với tỉ lệ và phương hướng chính xác.

Marcus lại tỏ ra mệt mỏi. Không nhiều người dám đặt ra những yêu sách quái đản như vậy với ông.

- Anh có thể in một sơ đồ tầng hầm lấy từ trong mạng nội bộ mà Carl. Quá dễ dàng!

- Đây! - Carl vừa nói vừa chỉ vào bản sơ đồ trải rộng trước mặt Assad. - Chỗ này anh có thể thấy chính là bức tường kia, và đây là nơi anh đã đặt tấm thảm cầu nguyện. Còn đây là mũi tên chỉ hướng Bắc. Giờ thì anh đã có thể xoay thảm theo đúng hướng rồi nhé.

Đôi mắt đang nhìn vào Carl đong đầy sự trân trọng. Họ sẽ trở thành đồng đội tốt của nhau.

- Có hai người gọi điện cho anh. Tôi đã nói với cả hai là anh sẽ gọi lại sau.

- Ai vậy?

- Cái ông giám đốc ở Frederikssund, và một phụ nữ có giọng nói giống như tiếng rít lưỡi cưa. Carl thở dài thành tiếng.

- Vigga. Vợ tôi đấy.

Vậy là cô ta đã lần ra được số điện thoại bàn mới của anh. Anh không còn được yên thân nữa rồi.

- Vợ? Anh có vợ rồi à?

- Ồ, Assad, bây giờ mà bàn đến chuyện đó thì phức tạp lắm. Chúng ta hãy tìm cách hiểu nhau trước cái đã.

Assad mím môi gật đầu. Vẻ cảm thông hiện lên trên mặt anh.

- Assad này, chính xác thì anh tìm được công việc này như thế nào?

- Tôi biết Lars Bjorn.

- Anh biết anh ta á? Assad mỉm cười.

- Vâng. Tôi đã đến phòng làm việc của anh ta hàng ngày trong suốt một tháng trời để xin việc.

- Anh đã đeo bám Lars Bjorn để có được việc làm á?

- Vâng. Tôi thích ngành cảnh sát mà.

Carl không gọi lại cho Vigga cho đến khi anh đã về tới phòng khách nhà mình tại Ronneholt Park, hít ngửi món ăn mà Morten đang nấu trong lúc nghe các bản aria opera đầy cảm xúc. Anh chàng đã chế biến nó từ chỗ jambon Parma mua ở Super-Best còn lại.

Vigga nếu được tiếp nhận từ từ thì không sao, chừng nào anh còn được phép quyết định sẽ tiếp nhận cô ta như thế nào. Trong nhiều năm trời đó là một việc khó khăn, nhưng giờ đây, khi cô ta đã ra đi, một số luật chơi phải được tôn trọng.

- Khỉ gió, Vigga. - Anh thốt lên. - Anh không muốn em gọi đến cơ quan anh. Em biết anh bận như thế nào mà.

- Carl, cưng à. Morten chưa nói với anh là em đang lạnh cóng ngoài này sao?

- Anh không lạ. Đó là một cái chòi canh vườn, Vigga. Nó được gá ghép từ những vật liệu xây dựng vứt đi.

Ván ép và gỗ thùng từ năm 1945. Em chỉ cần dọn đi nơi khác.

- Em sẽ không dọn về sống với anh đâu, Carl. Anh hít một hơi thật sâu.

- Anh cũng không mong điều đó. Sẽ khó mà nhét vừa em cùng cái đám phi công trẻ của em dưới hầm với Morten. Nhưng rất nhiều ngôi nhà và căn hộ khác có hệ thống sưởi trung tâm đấy.

- Em đã tìm được giải pháp thực sự tốt cho toàn bộ chuyện này.

Chưa cần nghe cụ thể, nó đã có vẻ rất tốn kém rồi.

- Giải pháp thực sự tốt là ly dị, Vigga. - Anh nói.

Sớm muộn gì chuyện đó cũng phải xảy ra. Khi đó cô ta có thể đòi một nửa giá trị của căn nhà, và giá của nó đã tăng đáng kể trong vài năm qua do sự phát triển điên rồ của thị trường nhà đất bất chấp những biến động. Lẽ ra anh nên đòi ly dị khi giá nhà cửa chỉ bằng phân nửa so với hiện tại. Nhưng giờ thì đã quá trễ, và anh thà chết còn hơn dọn đi nơi khác.

Anh ngước mắt nhìn lên trần nhà rung rinh bên dưới phòng của Jesper. Cho dù có đi vay nợ sau khi ly dị, chỉ tiêu của mình cũng không thể nhiều hơn hiện giờ được, anh nghĩ bụng. Nếu ly dị, cô ta phải có trách nhiệm trở lại với đứa con trai của mình. Hóa đơn tiền điện nhà anh cao nhất xóm, nguyên nhân không cần nói ra cũng biết là do ai. Jesper hẳn phải là khách hàng số một của công ty điện lực.

- Ly dị á? Không, em không muốn ly dị, Carl. Em đã thử điều đó trước đây, và nó chẳng tốt đẹp chút nào.

Anh cũng biết rồi đấy.

Carl lắc đầu. Vậy cô ta gọi tình trạng mà họ đang sống từ vài năm nay là gì?

- Em muốn có một gallery, Carl à. Một gallery của riêng em.

OK, bắt đầu rồi đây. Anh hình dung ra những bức vẽ lem nhem các vệt màu hồng và màu đồng cao cả mét của Vigga trong đầu. Một gallery á? Ý hay, nếu cô ta đang muốn có tiền để cơi nới thêm cái chòi canh vườn của mình.

- Gallery hả? Anh hình dung nó phải có một lò sưởi khổng lồ, để em có thể ngồi trong đó cả ngày mà đếm những đồng krone kiếm được.

Chắc chắn rồi, anh còn lạ gì cái trò vớ vẩn này.

- Anh thì cái gì cũng châm chọc được. - Vigga đáp, rồi bật cười. Cái tiếng cười luôn làm anh xiêu lòng. Tiếng cười quyến rũ đó. - Nhưng đó là một ý tưởng tuyệt vời. Một gallery sẽ mở ra rất nhiều khả năng cho em, anh có thấy không? Biết đâu một ngày kia Jesper sẽ có một bà mẹ nổi tiếng. Hay quá còn gì?

Nổi tiếng á? Chọn chữ chuẩn ghê, Carl nghĩ bụng. Nhưng rồi anh nói:

- Vậy là em đã tìm được địa điểm rồi, đúng không?

- Ồ, nó đẹp lắm, Carl ơi. Hugin cũng đã nói chuyện với người chủ rồi.

- Hugin?

- Vâng. Hugin là một họa sĩ tài năng.

- Tài năng trên giường nhiều hơn là bên giá vẽ chứ gì?

- Thôi nào, Carl. - Vigga lại cười. - Anh dễ thương chút đi.