Chương 24

Carl đã thu xếp được hai cuộc hẹn tại Christiansborg. Tiếp anh là một phụ nữ cao gầy, nom như đã quen với nơi này từ bé. Chị dẫn anh đi qua mê cung các hành lang để lên đến văn phòng của phó chủ

tịch đảng Dân chủ với một sự thông thạo đáng ghen tị.

Birger Larsen là chính trị gia đầy kinh nghiệm tiếp quản vị trí phó chủ tịch của Merete Lynggaard ba ngày sau khi cô biến mất. Kể từ đó, anh ta chứng tỏ bán thân qua việc hành động như chất keo cần thiết để kết nối hai cánh của đảng trong một mối liên hệ tương đối mật thiết. Sự ra đi của Merete đã đê lại một khoảng trống to lớn. Ngài cựu chủ tịch đảng đã gần như chọn bừa một người sẽ kế nhiệm mình - một phụ nữ rỗng tuếch với nụ cười thường trực trên môi ban đầu từng là phát ngôn viên của đảng. Không một ai, ngoại trừ người kế nhiệm được chỉ định, cảm thấy vui với quyết định đó của ngài chủ tịch. Chỉ cần chưa đẩy hai giầy là Carl đã nhận thấy Birger Larsen thà xây dựng sự nghiệp ở một doanh nghiệp tỉnh lẻ cỡ nhỏ hơn là làm việc dưới trướng của bà ứng viên thủ tướng tiềm năng đây tự mãn kia.

Chắc chắn sẽ đến một ngày việc ra đi không phải do anh ta tự quyết định nữa.

- Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn chưa thể chấp nhận được là Merete đã tự vẫn. - Birger Larsen vừa nói vừa rót cho Carl một tách cà phê vô cùng nhạt nhẽo. - Tôi không nghĩ mình từng gặp ai vui vẻ và yêu đời như thế. - Anh ta nhún vai. - Nhưng cũng phải nói là con người ta sống chết có số. Chúng ta ai mà chẳng có những biến cố trong đời không thể đoán trước kia chứ?

Carl gật đầu.

- Ở đây cô ấy có kẻ thù nào hay không?

Birger Larsen phô ra một hàm răng cực kỳ khấp khểnh khi cười.

- Ai mà không có kẻ thù kia chứ? Merete là người phụ nữ nguy hiểm nhất ở đây nếu căn cứ theo tương lai của nội các chính phủ, ảnh hưởng của Piv Vestergård, và khả năng đảng Trung dung cấp tiến nắm được ghế thủ tướng. Cô ấy thực sự nguy hiểm đối với bất kỳ người nào đang nhắm đến chức vụ đó, vì lẽ ra Merete có thể ngồi vào cái ghế đó nếu có thâm niên hoạt động chính trị lâu hơn vài năm.

- Anh có nghĩ cô ấy nhận được lời đe dọa từ một người nào đó ở đây không?

- Ồ, đám chính khách chúng tôi đủ khôn để không làm một chuyện như thế.

- Biết đầu Merete có những mối quan hệ cá nhân có thể dẫn tới việc bị ghen tị hoặc thù ghét. Anh nghĩ sao?

- Theo những gì mà tôi biết thì Merete không quan tâm tới những mối quan hệ cá nhân. Đối với cô ấy thì chỉ có công việc, công việc và công việc. Tuy quen biết Merete từ hồi cô ấy còn là một sinh viên ngành khoa học chính trị, nhưng tôi cũng chưa bao giờ được phép tiếp cận gần hơn mức mà cô ấy cho phép.

- Và cô ấy không cấp phép cho bất kỳ ai? Hàm răng của Birger Larsen lại xuất hiện.

- Ý anh là có ai quan tâm để ý đến Merete trên mức đồng nghiệp ấy à? Dĩ nhiên là có. Tôi có thể nghĩ

đến nửa chục cái tên sẵn sàng bỏ vợ để có được mười phút riêng tư với Merete Lynggaard.

- Anh có nằm trong số đó không vậy? - Carl tự cho phép mình mỉm cười.

- Ờ thì, ai mà cầm lòng được chứ? - Những chiếc răng lại xuất hiện. - Nhưng Merete và tôi chỉ là bạn. Tôi biết những giới hạn của mình.

- Nhưng có thể một số người khác thì không?

- Về chuyện đó thì anh nên đi hỏi Marianne Koch.

- Người thư ký trước đây của cô ấy á? Anh có biết vì sao người này bị thay thế hay không?

- Thực ra là không. Hai người làm việc chung với nhau được vài năm, nhưng có lẽ Marianne tỏ ra hơi quá tọc mạch trong mắt Merete.

- Tôi có thể tìm cô Marianne đó ở đâu?

Một tia ranh mãnh hiện lên trong mắt Birger Larsen.

- Ở nơi mà anh đã chào cô ấy mười phút trước, tôi nghĩ thế.

- Bây giờ Marianne làm thư ký cho anh à? - Carl đặt tách cà phê xuống và chỉ tay ra cửa. - Người ngói ngoài kia á?

Marianne Koch là hình ảnh trái ngược hoàn toàn so với người phụ nữ đã dãn đường cho Carl. Cô có vóc dáng nhỏ nhắn, mái tóc xoăn đen dường như tỏa ra mùi hương cám dỗ từ bên kia bàn làm việc.

- Vì sao cô thôi làm thư ký cho Merete Lynggaard trong giai đoạn ngay trước khi cô ấy biến mất? - Carl hỏi ngay sau khi màn giới thiệu cần thiết đã xong.

Cô gái nhíu mày.

- Tôi cũng không hiểu được chuyện đó. Không hiểu ngay lập tức. Thật ra tôi đã khá là giận chị ấy. Nhưng rồi sau đó mọi người phát hiện ra Merete có một cậu em trai thiểu năng cần được chăm sóc.

- Thì sao?

- Ờ thì, tôi cứ nghĩ Merete có bạn trai, vì chị ấy luôn hành xử kín đáo và ngày nào củng vội vã ra về. Carl mỉm cười.

- Cô đã nói với cô ấy về nghi ngờ của mình.

- Vâng, thế mới ngu. Bây giờ tôi mới nhận ra điều đó. Nhưng tôi cứ tưởng chúng tôi đủ thân. Cuộc sống không ngừng dạy dỗ chúng ta, anh biết đấy.

Cô thư ký nở một nụ cười rụt rè làm xuất hiện những lúm đồng tiến nhỏ. Nếu Assad mà ở đây, chắc anh chàng sẽ khó mà sống nổi.

- Ở đây có ai từng thử hẹn hò với cô ấy chưa?

- Ô, có chứ. Merete nhận được rất nhiều lời ve vãn từ cánh đàn ông. Nhưng chỉ có một người tỏ ra nghiêm túc.

- Và cô rất muốn tiết lộ tên của người đó với tôi?

Cô thư ký mỉm cười. Cô ta sẵn sàng tiết lộ bất cứ thứ gì nêu chuyện đó làm cô ta thấy vui.

- Đương nhiên. Đó là Tage Baggesen.

- Ồ, tôi đã từng nghe thấy cái tên này.

- Anh ta sẽ rất vui mừng khi được biết đến. Tôi có cảm giác anh ta đã giữ ghế phát ngôn viên đảng Trung dung cấp tiến từ cả ngàn năm rỗi ấy.

- Cô có bao giờ kể chuyện này với ai khác hay chưa?

- Rồi, với cảnh sát, nhưng có vẻ như họ không nghĩ là nó quan trọng.

- Còn cô thì sao? Cô gái nhún vai.

- Còn người nào khác theo đuổi Merete không?

- Đẩy, nhưng không ai nghiêm túc cả. Merete thỏa mãn nhu cầu trong những chuyến du lịch.

- Cô ám chỉ cô ta là một phụ nữ dễ dãi?

- Chúa ơi, anh hiểu theo nghĩa đó ư? - Cô ta quay đi, cố nín cười. - Không, chắc chắn Merete không phải là loại đó, nhưng cũng chẳng phải là thánh nữ. Tôi chỉ không biết chị ấy vào tu viện với ai mà thôi. Merete không bao giờ nói cho tôi biết.

- Này, Merete không phải là người đồng tính đấy chứ?

- Không đầu, chị ấy luôn bật cười mỗi khi bị báo chí lá cải đồn thổi chuyện giới tính.

- Theo cô, có lý do nào khiến cho Merete có thể bỏ lại quá khứ sau lưng và bước sang một cuộc đời hoàn toàn mới hay không?

- Ý anh là có phải hiện giờ Merete đang ngồi ung dung tắm nắng ở Mumbai hay không chứ gì? -

Marianne giận dữ ra mặt.

- Đúng, bất kỳ nơi nào làm cho cuộc sống của cô ấy bớt rắc rối hơn. Cô có nghĩ đến khả năng đó không?

- Chuyện đó hoàn toàn phi lý. Merete là một người cực kỳ có ý thức. Tôi biết một số người có thể dễ dàng sụp dổ như một tòa lâu đài cát và đột ngột biến đi, nhưng Merete không phải là người như vậy. - Marianne ngừng lời, trầm ngâm một chút. - Nhưng đó là một ý tưởng không tồi. - Cô gái mìm cười. - Ý tôi là, như vậy Merete có thể ván còn sống.

Carl gật đầu. Hàng loạt chân dung tâm lý của Merete Lynggaard đã được thiết lập ngay sau khi cô biến mất, và tất cả đều dẫn tới cùng một kết luận. Merete không trốn chạy cuộc đời mình. Ngay cả các tờ báo lá cải cũng bác bỏ khả năng này.

- Cô có nghe nói gì về một bức điện tín mà Merete nhận được trong tuần làm việc cuối cùng trước khi biến mất không? - Carl hỏi tiếp. - Một điện tín nhân ngày lễ Tình nhân ấy?

Câu hỏi có vẻ làm Marianne khó chịu. Rõ ràng cô ta vẫn còn bực bội vì đã không được là một phần cuộc sống của Merete cho đến phút cuối.

- Không. Cảnh sát cũng đã hỏi tôi về nó, nhưng cũng như tôi đã bảo với họ, anh nên đi hỏi Søs Norup, người thay thế vị trí của tôi.

Carl nhướng mày quan sát cô gái.

- Cô có vẻ không vui vì chuyện này.

- Còn phải hỏi. Nếu là anh thì anh có vui được không? Merete và tôi đã làm việc chung với nhau hai năm mà không hể có trục trặc nào.

- Cô có tình cờ biết được hiện nay Søs Norup đang ở đâu không? Marianne nhún vai. Đó là điều mà cô ta ít bận tầm nhất.

- Vậy còn anh chàng Tage Baggesen kia? Tôi có thể gặp anh ta ở đâu?

Marianne vẽ cho Carl một sơ đồ đường đi tới văn phòng của Baggesen. Xem chừng không dễ để tìm ra nó.

Carl mất gần nửa giờ đồng hồ để tìm ra khu vực văn phòng của Tage Baggesen và đảng Trung dung cấp tiến. Đó là một chuyến đi chẳng mấy vui vẻ. Anh không hiểu nổi làm thế quái nào người ta có thể làm việc trong một môi trường đẩy đạo đức giả như vậy. Tại sở cảnh sát, chí ít anh cũng biết người mình đang đối diện là bạn hay thù, vì họ không ngại thể hiện mình, và mọi người vẫn có thể sát cánh cùng nhau vì một mục tiêu chung. Còn ở đây thì ngược lại. Mọi người giả vờ là bạn tốt của nhau, nhưng rốt cuộc tất cả đều chỉ nghĩ đến bản thân trước hết. Tiền bạc và quyển lực quan trọng hơn kết quả. Ở chỗ này, một người muốn trở nên vĩ đại thì phải làm cho những kẻ khác thành ra bé mọn. Có thể không phải lúc nào cũng như vậy, nhưng hiện tại thì đúng là thế.

Tage Baggesen rõ ràng cũng không ngoại lệ. Vai trò của anh ta là bảo vệ các lợi ích của khu vực bầu cử mà mình đại diện, đồng thời quán lý các chính sách về giao thông của đảng mình, nhưng chỉ cần nhìn qua là biết ngay con người anh ta thế nào. Tage Baggesen đã thu xếp được một khoản lương hưu hậu hĩnh, và những gì nhận được trước khi về vườn được anh ta dồn cả vào các bộ trang phục đắt tiền cùng các quỹ đầu tư sinh lợi. Carl đưa mắt nhìn những bức tường được bao phủ bởi các tấm giấy chứng nhận từ những giải thì đấu golf và những tấm ảnh không rõ nét chụp các điển trang nằm rải rác trên khắp đất nước của Baggesen.

Carl định hỏi liệu anh ta có đang theo nhầm đảng, nhưng Tage Baggesen đã bác ngay ý định đó bằng một cái vỗ lưng thân thiện kèm theo lời chào lịch duyệt.

- Tôi nghĩ anh nên đóng cửa lại. - Carl hất đầu ra phía hành lang.

Câu nói của Carl khiến cho Baggesen nheo mắt vui vẻ. Đó là một mánh lới nhỏ được anh ta sử dụng một cách thành công khi thương lượng về các tuyến xa lộ mới ở Holstebro, nhưng nó không có tác dụng gì với một phó chánh thanh tra quá rành những chuyện rác rưởi.



- Tôi không nghĩ chúng ta cần phải làm thế. Tôi chẳng có gì phải giấu các thành viên khác trong đảng cả.

- Tage Baggesen đáp.

- Chúng tôi biết anh từng tỏ ra quan tâm đặc biệt tới Merete Lynggaard. Anh đã gửi điện tín cho cô ấy, chưa kể những thứ khác. Một điện tín nhân ngày Tình nhân.

- Gì cơ? Tôi không nhớ có chuyện này.

Carl gật đầu. Sự già dối lộ rỏ trên gương mặt anh ta. Tất nhiên là anh ta vẫn nhớ. Giờ thì anh có thể tấn công trực diện.

- Tôi đề nghị anh đóng cửa phòng chẳng qua cũng vì tôi muốn hỏi thẳng liệu anh có phải là người đã sát hại Merete hay không. Anh si mê cô ấy và bị cự tuyệt. Điều đó khiến anh mất kiêm soat. Có phải mọi chuyện là như thế không?

Trong một tích tắc, Tage Baggesen phải huy động mọi tế bào trong bộ não vốn rất tự tin của mình để cân nhắc xem có nên đứng dậy đóng cửa hay vờ như mình bị đột quỵ. Làn da anh ta thoắt nhuộm màu đỏ quạch giống như mái tóc trên đầu. Anh ta bị sốc nặng và trở nên hoàn toàn yếu đuối. Mồ hôi túa ra từ mọi cái lỗ trên người anh ta. Carl biết hết các mánh khóe trong sách vở, nhưng phản ứng của Tage Baggesen rất khác lạ. Nếu người đàn ông này có liên quan đến vụ việc, anh ta có thể sẽ tự thú ngay. Nếu không thì có gì đó đang đẩy anh ta vào chân tường. Miệng anh ta há hốc. Nếu không cẩn thận, Carl sẽ làm anh ta câm như hến. Trong cuộc đời được điều chỉnh kỹ lưỡng của mình, Tage Baggesen chưa từng phải trả lời một câu hỏi tương tự.

Carl cố mỉm cười với anh ta. Phản ứng đột ngột của Tage Baggesen có vẻ như đã làm anh ta trở nên dễ mến hơn. Như thể ở đâu đó trong cơ thể được nuôi dưỡng bằng những bữa yến tiệc cao cấp kia vẫn còn tồn tại một con người.

- Anh nghe này, Baggesen. Anh đã nhắn tin cho Merete. Rất nhiều lần. Tôi có thể khẳng định với anh là cô thư ký trước đây của Merete để ý rất kỹ sự theo đuổi đó của anh.

- Ở đây mọi người nhắn tin cho nhau là chuyện thường. - Baggesen tìm cách uể oải ngả người ra sau, nhưng phần lưng ghế lại ở cách anh ta quá xa, khiến cho cử chỉ đó mất đi sự tự nhiên.

- Như vậy tức là anh khẳng định các tin nhắn không chứa đựng nội dung nào mang tính cá nhân? Đến đây, tay nghị sĩ quốc hội nhấc cơ thể đồ sộ lên khỏi ghế và đi ra khép cửa phòng lại.

- Đúng là tôi có cảm tình mạnh với Merete Lynggaard. - Baggesen nói với vẻ mặt rầu rĩ chân thành đến

nỗi Carl gần như cảm thấy tiếc thay cho anh ta. - Khó khăn lắm tôi mới vượt qua được cái chết của cô ấy.

- Tôi hiểu. Tôi sẽ cố gắng làm chuyện này nhanh gọn.

Đáp lại câu nói của Carl là một nụ cười biết ơn. Baggesen đã hoàn hồn trở lại.

- Tôi biết anh đã gửi cho Merete Lynggaard một điện tín mừng ngày Tình nhân vào tháng Hai năm 2002.

Điều này đã được công ty điện tín xác nhận hôm nay.

Giờ thì Baggesen tỏ ra buồn bã. Anh ta đang bị quá khứ gặm nhấm. Baggesen thở dài.

- Dĩ nhiên tôi biết cô ấy không quan tâm đến tôi theo kiểu đó. Thật không may. Tôi đã hiểu ra ngay từ hồi đó.

- Nhưng anh vẫn cố?

Anh ta gật đầu, không nói gì.

- Nội dung của bức điện đó là gì? Lần này anh phải nói ra sự thật. Baggesen ngoẹo đầu sang một bên.

- Như thường lệ. Rằng tôi muốn gặp cô ấy. Tôi không nhớ chính xác câu chữ. Đó là sự thật.

- Và anh đã sát hại Merete vì cô ấy không quan tâm đến anh?

Mắt Baggesen nheo lại thành hai đường chỉ mảnh. Môi anh ta mím chặt. Một giây trước khi những giọt nước mắt bắt đầu tuôn rơi trên má của tay chính trị gia, Carl suýt nữa đã tuyên bố bắt giữ anh ta. Nhưng rồi Baggesen ngẩng đầu lên và nhìn vào mắt anh. Không phải giống như anh là một đao phủ đang tròng dây thòng lọng vào cổ anh ta, mà giống như anh là một linh mục giải tội để anh ta mở lòng.

- Ai có thể gϊếŧ hại người duy nhất làm cho cuộc đời này đáng sống kia chứ? - Anh ta hỏi. Họ ngồi đó một lúc, mắt nhìn nhau. Rồi Carl quay đi.

- Theo anh, Merete có kẻ thù nào ở đây hay không? Không phải đối thủ chính trị. Ý tôi là một kẻ thù thực

sự.

Baggesen đưa tay quẹt mắt.

- Tất cả chúng tôi đều có kẻ thù, nhưng không phài kẻ thù thực sự như anh nói.

- Không ai có ý định làm hại cô ấy sao? Baggesen lắc đầu.

- Nếu có thì tôi sẽ rất ngạc nhiên. Cô ấy rất được yêu mến, kể cả bởi những đối thủ chính trị.

- Tôi lại có suy nghĩ khác. Vậy anh không nghĩ Merete xử lý những vấn đề quan trọng có thể gây rắc rối cho những người nào đó đến mức họ sẵn sàng làm mọi thứ để trừ khử cô ấy? Những nhóm lợi ích đặc biệt cảm thấy bị đe dọa hoặc gây áp lực chẳng hạn?

Baggesen nhìn Carl với ánh mắt nhượng bộ.

- Anh thử hỏi các thành viên trong đảng của cô ấy xem sao. Merete và tôi không phải là những người bạn chính trị. Có thể nói còn lâu mới được như vậy. Anh có phát hiện được điều gì đặc biệt không?

- Các chính trị gia trên thế giới luôn quyết liệt bảo vệ quan điểm của mình mà, đúng không? Những người phản đối phá thai, điên cuồng bảo vệ quyến lợi động vật, bài xích hồi giáo hoặc ngược lại… những việc vớ vẩn nhất cũng có thể chầm ngòi cho một phản ứng dữ dội nơi họ. Hãy thử nhìn sang Thụy Điển, Hà Lan, hoặc Hoa Kỳ mà xem.

Carl vờ như đứng dậy và nhận thấy vẻ nhẹ nhõm xuất hiện trên gương mặt của tay nghị sĩ. Nhưng có lẽ anh nghĩ hơi sâu xa quá. Ai mà chẳng muốn cuộc nói chuyện như thế này kết thúc cho nhanh kia chứ?

- Baggesen. - Carl nói tiếp. - Hi vọng anh đủ tử tê để liên lạc với tôi nếu như tình cờ nắm được điều gì đó mà tôi nên biết. - Anh đưa cho anh ta danh thϊếp của mình. - Nếu không vì lợi ích của tôi, thì cũng là của anh. Không nhiều người trong cái chốn này có suy nghĩ tích cực về Merete Lynggaard như anh đầu, tôi e là vậy.

Câu nói của Carl đã đánh trúng mục tiêu. Chắc chắn những giọt nước mắt sẽ lại tuôn trào một lần nữa, trước cả khi anh khép cửa lại sau lưng.

Theo hồ sơ hộ tịch, nơi thường trú gần nhất của Søs Norup là nhà cha mẹ cô, nằm ngay giữa quận Frederiksberg sang chảnh. Tấm biển đồng gắn trên cửa cho biết đây là nhà của thương gia buôn sỉ Vilhelm Norup và nữ diễn viên Kaja Brandt Norup.

Carl nhấn chuông. Anh nghe thấy tiếng chuông vang vọng phía sau cánh cửa đồ sộ bằng gỗ sồi. Một lát sau, nó được cộng hưởng bởi một lời đáp khẽ: “Vâng, tôi ra đây”.

Người đàn ông ra mở cửa chắc đã nghỉ hưu được một phấn tư thế kỳ là ít. Căn cứ theo chiếc gilet và cái cà vạt lụa thì tài sản của ông ta vẫn chưa cạn kiệt. Ông già khó chịu nhìn Carl với đôi mắt mệt mỏi vì bệnh tật, như thể kẻ đứng trên ngưỡng cửa nhà ông là thần chết cầm lưỡi hái.

- Anh là ai? - Ông ta hỏi xẵng, tay chuẩn bị dập cửa lại.

Carl tự giới thiệu và rút phù hiệu cảnh sát ra. Anh xin phép được vào trong nhà.

- Có chuyện gì xảy ra với con Søs à? - Ông già hỏi ngay.

- Tôi không biết. Tại sao ông lại hỏi thế? Cô ấy không có nhà sao?

- Con bé không còn sống ở đây nữa, nếu nó là người anh đang tìm.

- Ai thế, Vilhelm? - Một giọng nữ yếu ớt cất lên từ phía sau cánh cửa đôi của phòng khách.

- Một người nào đó muốn nói chuyện với con Søs.

- Vậy thì anh ta nên đi tìm ở nơi khác. - Người phụ nữ đáp. Ông già nắm lấy ống tay áo của Carl.

- Con bé sống ở Valby. Hãy bảo nó là chúng tôi muốn nó quay về nhà dọn sạch đồ đạc nếu nó muốn sống theo kiểu đó.

- Kiểu đó là kiểu gì?

Ông già không trả lời. Ông ta viết cho anh một địa chỉ ở Valhojvej, trước khi đóng sập cửa.

Chỉ có ba cái tên nằm bên cạnh hệ thống liên lạc nội bộ của tòa chung cư nhỏ trước đây được dành cho công nhân ngành xây dựng. Có lẽ nó từng là nơi ở của sáu gia đình với bốn đến năm đứa con mỗi nhà. Cái ổ chuột của thời trước nay đã được sang sửa lộng lẫy. Trong căn hộ áp mái, Søs Norup đã tìm thấy tình yêu của đời mình, một người đàn bà ngoại tứ tuần. Đôi môi nhợt nhạt mím chặt của chị ta thể hiện sự nghi ngờ không giấu giếm đối với cái phù hiệu cảnh sát của Carl.

Đôi môi của Søs cũng chẳng tỏ ra thân thiện hơn. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, Carl đã hiểu vì sao những đồng nghiệp cũ của cô ta chẳng mảy may xúc động khi cô ta ra đi. Trên đời này khó mà tìm được người nào tỏ ra khó ưa đến thế.

- Merete Lynggaard là một người sếp vô tích sự. - Cô ta bình phẩm.

- Ý cô là cô ấy không làm việc nghiêm túc? Tôi chưa nghe ai nói như thế cả.

- Chị ta toàn đẩy hết mọi việc cho tôi.

- Tôi lại thấy đó là một điểm cộng.

Carl quan sát cô nàng cựu thư ký. Cô ta có vẻ giống như một phụ nữ luôn bị kiểm soát và ghét điều đó. Ông Norup và vợ, người đã từng rất nổi tiếng, có lẽ đã nuôi dạy con gái mình theo kiểu phục tùng tuyệt đối. Một việc khó khăn đối với đứa con độc nhất buộc phải làm vui lòng bố mẹ. Carl tin rằng mọi chuyện đã đi đến chỗ khiến cô ta cũng căm ghét bố mẹ nhiều như yêu quý họ. Ghét vì hình ảnh mà họ đại diện, và yêu quý họ cũng vì cùng điều đó. Theo quan điểm của anh, đó là lý do Søs luôn về nhà bố mẹ mỗi khi có cơ hội dù đã có cuộc sống riêng.

Anh liếc nhìn bạn đời của Søs. Với trang phục rộng thùng thình và điếu thuốc lá vắt vẻo trên môi, chị ta ngồi đó để bảo đảm anh không gạ gẫm bạn gái mình. Chị ta có vẻ quyết tâm trở thành điểm tựa cho Søs, rõ ràng là thế.

- Tôi nghe nói Merete Lynggaard rất hài lòng về cô.

- Ồ, thế à?

- Tôi muốn hỏi cô về cuộc sống riêng của Merete. Có điều gì cho phép chúng ta nghĩ rằng cô ấy đang mang thai tại thời điểm biến mất hay không?

Søs nhíu mày, chưng hửng.

- Mang thai? - Cô ta bật ra mấy chữ đó như thể nó là một loại bệnh truyền nhiễm. - Không, tôi không tin có chuyện đó.

Cô ta nhìn sang bạn tình và đảo mắt.

- Làm sao cô dám chắc như vậy?

- Anh nghĩ thế nào khi chị ta không phải là con người hoàn hảo như tất cả vẫn tưởng, và phải mượn băng vệ sinh của tôi mỗi khi quên béng mất ngày đèn đỏ của mình?

- Tức là cô ấy đang có chu kỳ ngay trước khi biến mất?

- Đúng, một tuần lễ trước đó. Chúng tôi có chu kỳ giống nhau hồi tôi làm thư ký cho cô ta. Carl gật đầu. Đây là việc mà cô ta có thể chắc chắn được.



- Theo cô thì Merete có người yêu hay không?

- Tôi đã được hỏi câu này hàng trăm lần.

- Làm ơn nhắc cho tôi nhớ.

Søs rút ra một điếu thuốc và gõ nó xuống bàn.

- Đám đàn ông nhìn chị ta như thể chì muốn đè nghiến xuống bàn. Làm sao tôi biết được nếu có thằng cha nào thành công trong chuyện đó?

- Theo báo cáo của cảnh sát thì Merete có nhận được một điện tín nhân ngày lễ Tình nhân. Cô có biết người gửi nó là Tage Baggesen hay không?

Søs châm thuốc và mất hút sau một đám khói xanh.

- Không, tôi không biết chuyện đó.

- Vậy là cô không biết liệu giữa họ có gì với nhau hay không sao?

- Có gì với nhau á? Chuyện xảy ra đã năm năm rồi, thưa anh. - Cô ta phả một đám khói vào mặt Carl, khiến cho ả nhân tình nhếch mép cười.

Carl hơi ngả người ra sau.

- Này, cô nghe tôi nói đây. Tôi sẽ ra về sau bốn phút nữa. Nhưng trước khi tôi làm điều đó, hãy vờ như chúng ta rất muốn giúp đỡ lẫn nhau, được chứ? - Anh nhìn thẳng vào mắt Søs trong khi cô ta vẫn cố giấu sự căm ghét bản thân phía sau một thái độ thù địch. - Tôi sẽ gọi cô là Søs, được chứ? Tôi luôn gọi người hít khói thuốc cùng mình bằng tên.

Søs bỏ bàn tay cầm điếu thuốc xuống.

- Bây giờ tôi sẽ hỏi cô chuyện này. Cô có nhớ được bất kỳ sự cố nào xảy ra ngay trước khi Merete biến mất hay không? Bất cứ thứ gì mà chúng tôi có thể điều tra thêm? Tôi sẽ liệt kê một số khả năng, và cô hãy dừng tôi lại mỗi khi có bất kỳ điều gì phù hợp. - Cái gật đầu của anh không hề được đáp lại. - Nói chuyện điện thoại về việc cá nhân? Các mẩu giấy ghi chú bị bỏ lại trên bàn làm việc của Merete? Có người cư xử với cô ấy theo một cách không chuyên nghiệp? Hộp sô cô la, hoa, hoặc một chiếc nhản lạ xuất hiện trên ngón tay cô ấy? Merete có khi nào đỏ bừng mặt trong khi nhìn vào khoảng không? Cô ấy có gặp khó khăn trong việc tập trung vào những ngày cuối cùng trước khi biến mất hay không? - Anh quan sát cái xác sống đang ngồi đối diện. Đôi môi nhợt nhạt của cô ta không mảy may nhúc nhích. - Thái độ của cô ấy có thay đổi không? Cô ấy có về nhà sớm hơn không? Cô ấy có rời khỏi phòng họp quốc hội để gọi điện thoại di động ngoài hành lang hay không? Cô ấy có đi làm muộn hơn thường lệ hay không?

Anh lại đưa mắt nhìn Søs, gật đầu khích lệ cô ta như thể điều đó sẽ đánh thức cô ta khỏi giấc ngủ ngàn thu.

Søs rít thêm một hơi thuốc nữa rồi dụi tắt nó trong cái gạt tàn.

- Anh nói hết chưa?

Carl thở dài. Đúng là cứng đầu! Mà anh còn trông chờ điều gì khác từ cô gái này kia chứ?

- Vâng, tôi nói xong rồi.

- Tốt. - Søs ngẩng đầu lên. Trong một thoáng anh nhìn thấy một chút tự tin nơi cô ta. - Tôi đã khai với cảnh sát về bức điện và về cuộc gặp gỡ của Merete với ai đó ở quán cà phê Bankeråt. Tòi trông thấy chị ta viết nó vào sổ ghi lịch hẹn của mình. Tôi không biết chị ta đi gặp ai, nhưng chuyện đó làm chị ta đỏ mặt.

- Người đó có thể là ai? Søs nhún vai.

- Tage Baggesen chăng?

- Đó có thể là bất kỳ ai. Chị ta gặp gỡ rất nhiều người ở Christiansborg. Có một.người đàn ông đi cùng một phái đoàn tỏ ra để mắt đến chị ta. Nhưng những người như thế đây ra.

- Một phái đoàn? Chuyện đó xảy ra khi nào?

- Không lâu trước khi chị ta biến mất.

- Cô có nhớ tên của anh ta không?

- Sau năm năm trời á? Chúa ơi, không.

- Phái đoàn đó đến vì việc gì vậy? Søs nhìn anh với ánh mắt bực bội.

- Chuyện gì đó liên quan với các nghiên cứu về hệ miễn dịch. Nhưng anh đừng có ngắt lời tôi. - Cô ta đáp. - Merete cũng nhận được một bó hoa. Rõ ràng chị ta đã có một mối quan hệ khá riêng tư. Tôi không biết chuyện đó có ăn nhập gì không, nhưng tôi đã kế tất cả với cảnh sát.

Carl đưa tay gãi gáy. Thông tin này được lưu ở đâu nhỉ?

- Cô đã kể chuyện này với ai? Tôi có thể biết được không?

- Tôi quên mất tên anh ta rồi.

- Có phải anh ta tên là Børge Bak, thuộc Đội Phản ứng nhanh hay không? Søs chĩa ngón trỏ vào Carl, như thể muốn nói “Chuẩn!”

Thằng cha Bak chết tiệt. Có phải anh ta luôn bỏ qua nhiều chi tiết đến thế mỗi khi viết báo cáo không nhỉ?

Carl nhìn sang phía người phụ nữ được Søs Norup lựa chọn. Chị ta không phải loại người ban phát nụ cười. Lúc này chị ta đang chờ đợi anh cuốn xéo.

Anh gật đầu với Søs rồi đứng dậy. Trên tường, giữa những ô cửa sổ rộng, có treo nhiều tấm ảnh màu nhỏ được chụp trong studio, cùng với hai tấm ảnh lớn chụp bố mẹ của Søs thời còn trẻ. Ngày trước hẳn là họ khá hấp dẫn, nhưng thật khó để biết điều đó, vì Søs đã cào nát các khuôn mặt trong ảnh. Anh cúi xuống để nhìn vào những tấm ảnh nhỏ được đóng khung. Căn cứ theo quần áo và tư thế chụp, anh có thể nhận ra một trong những tấm ảnh dành cho báo giới của Merete Lynggaard. Khuôn mặt cô cũng bị cào nát. Vậy là Søs sưu tập hình ảnh của những người mà cô ta thù ghét. Có lẽ anh sẽ chiếm được một vị trí trên tường nếu cố

gắng.

Lần này thì Børge Bak ngồi một mình trong phòng làm việc. Chiếc áo khoác da của anh ta trông nhăn nhúm hơn thường lệ. Đó là bằng chứng không thể chối cãi cho thấy anh ta đang phải làm việc cật lực cả ngày lẫn đêm.

- Tôi đã nói anh đừng tự tiện vào đây chưa hả Carl? - Anh ta dằn mạnh tập giấy xuống bàn rồi quắc mắt nhìn anh.

- Anh tiêu rồi, Barge. - Carl đáp trả.

Không rõ việc nhắc đến tên mình hay bản thân lời kết tội đã làm cho phản ứng của Bak mau lẹ như vậy.

Mọi nếp nhăn trên trán của anh ta hẳn rõ sâu, chằng chịt đễn tận chân tóc.

- Merete Lynggaard nhận được một bó hoa chỉ vài ngày trước khi chết. Và theo như tôi được biết, cô ta chưa bao giờ được nhận hoa.

- Thì sao nào? - Khuôn mặt anh ta không thể tỏ ra khinh miệt hơn được nữa.

- Chúng ta đang tìm kiếm một kẻ có thể gây án mạng. Anh chưa hể nghĩ tới chuyện đó hay sao? Một người tình có thể là nghi phạm hoàn hảo.

- Chúng tôi đã điều tra hướng đó rất cặn kẽ.

- Nhưng nó không được ghi vào báo cáo. Bak nhún vai.

- Thôi nào, Carl. Anh đừng có dạy dỗ người khác về cách làm việc chứ. Tất cả mọi người ở đây đều làm việc như trâu trong khi anh chỉ việc ngồi chễm chệ trên ghế. Anh không nghĩ tôi biết điều đó à? Tôi chỉ ghi những thứ quan trọng vào báo cáo, thế thôi. - Anh ta giáng thêm một cú đấm vào tập giấy tội nghiệp nằm trên bàn.

- Anh đã bỏ qua việc một nhân viên xã hội tên là Karin Mortensen từng trông thấy cảnh Uffe Lynggaard bày những món đó chơi như thể còn nhớ được vụ tai nạn xe hơi. Có thể cậu ta cũng nhớ được điều gì đó trong ngày chị gái mất tích. Nhưng hình như anh đã không đào sâu hướng đó.

- Karen Mortensen. Karen, chứ không phải Karin. Anh hãy thử nghe chính anh nói chuyện mà xem. Đừng có đến đây dạy dỗ tôi về chuyện làm việc chu đáo hay không chu đáo.

- Như vậy có nghĩa anh cũng nhận ra thông tin mà Karen Mortensen cung cấp có thể quan trọng đến mức nào?

- Anh im đi. Chúng tôi đã kiểm tra nó, được chưa? Uffe chẳng nhớ được cái quái gì hết. Thằng nhóc đó có một cái đầu bã đậu.

- Merete Lynggaard đã gặp gỡ một người đàn ông vài ngày trước khi chết. Anh ta đi theo một phái đoàn nghiên cứu về hệ miễn dịch. Anh cũng không hể ghi điều này vào báo cáo.

- Không, nhưng chúng tôi cũng đã điều tra.

- Vậy hẳn anh phải biết anh ta đã tiếp cận Merete, và giữa họ rõ ràng đã có gì đó. Chính thư ký của cô ta, Søs Norup, bảo là đã kể với anh.

- Phải rồi, khỉ ạ. Tất nhiên là tôi biết chuyện đó.

- Vậy tại sao trong báo cáo không có?

- Tôi không biết. Chắc là do anh ta đã chết.

- Đã chết?

- Phải, chết cháy trong một vụ tai nạn xe hơi một ngày sau vụ mất tích của Merete. Tên anh ta là Daniel Hale. - Bak phát âm cái tên một cách rành rọt để Carl có thể nhận ra trí nhớ của anh ta tốt như thế nào.

- Daniel Hale?

Có vẻ như nãm tháng đã làm cho Søs quên mất cái tên này.

- Phải. Anh ta làm việc trên nghiên cứu về nhau thai mà phái đoàn kia đang cố tìm nguồn tài trợ. Anh ta có một phòng thí nghiệm tại Slangerup. - Bak trình bày các thông tin với một sự tự tin tuyệt đối. Anh ta nắm rất chắc phần này của vụ án.

- Nếu anh ta chết sau khi Merete mất tích, anh ta vần có thể liên quan tới vụ việc.

- Tôi không nghĩ vậy. Anh ta đang trên đường từ London quay về vào buổi chiều mà cô ta bị chết đuối.

- Anh ta có yêu Merete hay không? Søs úp mở với tôi về khả năng đó.

- Nếu có thì tôi rất tiếc cho anh ta. Merete không hề để mắt đến anh ta.

- Anh có chắc không, Børge? - Rõ ràng đồng nghiệp của Carl không thấy thoải mái khi bị anh gọi bằng tên. Vậy thì anh ta sẽ được nghe nó mãi mãi. - Biết đâu tay Daniel Hale chính là người mà Merete đã đi ăn tối cùng tại quán Bankeråt. Anh nghĩ sao, Børge?

- Nghe này, Carl. Người phụ nữ trong vụ án mạng xe đạp đã lên tiếng, và chúng tôi đang phải điều tra rất tích cực. Chuyện này không thể đợi được một chút hay sao? Daniel Hale đã chết. Anh ta cũng không có mặt tại Đan Mạch vào thời điểm Merete Lynggaard chết đuối. Cô ta đã chết, và Hale không liên quan con mẹ gì với vụ việc đó, được chưa?

- Anh đã không có gắng làm rõ xem có phải Hale chính là người Merete đi ăn tối cùng tại quán Bankeråt, đúng không? Trong báo cáo hoàn toàn không đề cập tới chuyện này.

- Anh nghe tôi nói đây! Cuộc điều tra cuối cùng đã đi đến kết luận rằng cái chết của cô ta nhiều khả năng là một vụ tai nạn. Ngoài ra, có đến hai mươi cảnh sát tham gia vào vụ đó. Anh đi mà hỏi một người nào khác. Còn bây giờ, biến khỏi phòng làm việc của tôi ngay, Carl.