Chương 25

Nếu chỉ dựa vào khướu giác và thính giác, Carl sẽ khó lòng phân biệt được giữa cái tầng hầm của trụ sở cảnh sát và một ngõ hẻm Cairo đông đúc khi anh đi làm vào buổi sáng thứ Hai. Chưa bao giờ tòa

nhà đáng kính này nóng nặc mùi nấu nướng và gia vị ngoại lai đến thế, và cũng chưa bao giờ các bức tường ở đây được nghe những âm sắc méo mó đến thế.

Một thư ký từ bộ phận hành chính vừa mới đi xuống kho lưu trữ đưa mắt liếc Carl khi đi ngang qua chỗ anh, hai tay ôm đấy hồ sơ. Nét mặt của chị ta cho thấy nội trong mười phút nữa cả tòa nhà sẽ biết mọi chuyện dưới tầng hầm đã trở thành điên rố.

Lời giải thích được tìm thấy trong căn phòng làm việc tí hon của Assad, nơi một đống khay nướng và giấy bạc đựng đây tỏi băm, những mầu rau xanh cùng với món cơm màu vàng đang nằm trên bàn. Cũng không lạ khi chuyện này làm người khác ngạc nhiên.

- Chuyện gì đang diễn ra ở đây vậy, Assad? - Carl nói to, đồng thời vươn tay tắt chiếc máy cassette.

Assad chỉ mỉm cười đáp lại. Rõ ràng anh chàng không nhận thức được hố sâu khác biệt văn hóa đang ăn xuyên qua những nền móng vững chãi của sở cảnh sát.

Carl nặng nề buông mình xuống chiếc ghế đối diện với tay trợ lý.

- Nó có mùi rất thơm, nhưng đây là đồn cảnh sát, Assad à. Đấy không phải là một tiệm bán đồ ăn Li-băng ở Vanlose.

- Mời sếp. Và cũng xin chúc mừng ngài chánh thanh tra. - Assad vừa đáp vừa đưa cho Carl một cái bánh bơ tam giác. - Đấy là của vợ tôi làm. Mấy đứa con gái tôi cắt giấy đấy.

Carl nhìn theo bàn tay của Assad trong khi anh chàng chỉ trở quanh phòng. Giờ thì anh đã nhận ra những tờ giấy màu sắc sặc sỡ buông xuống từ các giá sách và đèn trần.

Chuyện này sẽ không dễ dàng.

- Tôi cũng đã mang cho Hardy một ít vào hôm qua. Tôi đã đọc phần lớn hồ sơ vụ án cho anh ta nghe rồi.

- Chuyện đó có làm phiền gì anh không? - Carl có thể hình dung các y tá đang cho Hardy ăn bánh cuộn kiểu Ai Cập. - Anh đến gặp Hardy cả trong ngày nghỉ thật à?

- Anh ta đang nghiến ngẫm vụ án, Carl à. Một người tốt. Hardy là một người tốt. Carl gật đầu rồi cắn một miếng bánh. Anh định sẽ đi thăm Hardy vào ngày mai.

- Tôi đã đặt toàn bộ các tài liệu có liên quan đến vụ tai nạn xe hơi trên bàn anh. Nếu anh muốn, tôi cũng

có thể nói đôi chút về những gì tôi đã đọc được.

Carl lại gật đầu. Cứ cái đà này, trợ lý của anh sẽ viết báo cáo trước cả khi họ điều tra xong vụ án.

Ở những vùng khác của Đan Mạch, vào ngày trước lễ Giáng sinh năm 1986 nhiệt độ đã tăng lên sáu độ Celsius, nhưng tại Zealand thì không được may mắn như vậy, và điều này đã lấy đi sinh mạng của mười con người. Năm trong số họ thiệt mạng trên một con đường tỉnh lộ nhỏ chạy qua một cánh rừng thuộc khu vực Tibirke, bố mẹ của Merete và Uffe Lynggaard là hai trong năm người này.

Họ đã cố vượt mặt một chiếc Ford Sierra trên một đoạn đường bị gió dồn tuyết thành một lớp băng đá, và đó là nơi biến cố xảy ra. Không ai bị quy trách nhiệm, không có vụ kiện đòi bồi thường nào. Đó chỉ là một vụ tai nạn đơn giản, mặc dù hậu quả của nó vô cùng thảm khốc.

Chiếc xe hơi mà họ cố vượt đã đâm sầm vào một cái cây và vẫn còn bốc cháy khi đội cứu hỏa đến hiện trường, còn bản thân xe của họ nằm lật ngược ở cách đó năm mươi mét. Mẹ của Merete bị bay qua kính

chắn gió và rơi vào một bụi rậm, chết tại chỗ do gãy cổ. Bố cô kém may mắn hơn. Ông phải mất mười phút mới trút được hơi thở cuối cùng, với một nửa chỗ động cơ găm vào bụng và một thân cây đâm xuyên l*иg ngực. Người ta cho rằng Uffe vẫn tỉnh táo trong suốt thời gian đó, bởi lẽ khi được đội cứu hỏa đưa ra khỏi chiếc xe, cậu ta đã quan sát họ với đôi mắt mở to đầy kinh hoàng. Uffe nhất quyết không chịu buông tay chị gái, ngay cả khi cô được đưa ra ngoài để sơ cứu. Cậu không buông tay dù chỉ trong một giây.

Báo cáo của cảnh sát rất đơn giản và ngắn gọn, còn của báo chí thì ngược lại. Đó là một cầu chuyện béo bở để bọn họ tha hồ khai thác.

Trong chiếc xe kia, một bé gái chết ngay tại chỗ cùng với người bố. Hoàn cảnh đặc biệt bi kịch vì chỉ có người con trai lớn là thoát nạn và gần như không hề hấn gì. Người mẹ đang mang bầu ở giai đoạn cuối, và cả gia đỉnh đang trên đường đến bệnh viện. Trong khi lực lượng cứu hỏa cố gắng dập tắt ngọn lửa bên dưới capot xe, chị ta đã sinh hạ một cặp song sinh ở tư thế đầu gác lên xác chồng và một chân bị kẹt dưới ghế ngồi. Bất chấp những nỗ lực phi thường nhằm đưa họ ra khỏi chiếc xe kịp thời, một trong hai đứa trẻ đã chết, và báo chí được bảo đảm một bài đăng trang nhất trong ngày Giáng sinh.

Assad đã cho Carl xem cả báo lá cải địa phương lẫn các tờ báo quốc gia. Tất cả đều hiểu rõ giá trị khai thác của vụ tai nạn. Những tấm ảnh thật đáng sợ. Chiếc xe đâm vào thân cây, con đường tan hoang, người mẹ trên đường được đưa ra xe cứu thương cùng với cậu con trai khóc nức nở bên cạnh. Merete Lynggaard nằm trên một chiếc cáng đặt giữa đường, đeo mặt nạ oxy, còn Uffe thì ngồi trên một lớp tuyết mỏng với đôi mắt sợ hãi và nắm chặt bàn tay của người chị đang bất tỉnh.

- Anh xem này. - Assad nói trong lúc lấy từ trong tập hồ sơ đặt trên bàn Carl ra hai trang của tờ báo lá cải Gossip. - Lis phát hiện ra một vài tấm trong số này đã được báo chí đăng lại khi Merete Lynggaard được bầu vào quốc hội.

Phải nói là người chụp ảnh tình cờ có mặt tại Tibirke vào buổi chiều định mệnh đã vớ bẫm nhờ vài phút ngắn ngủi mà anh ta dành ra để chụp các tấm ảnh đó. Anh ta cũng là người đã chụp ảnh đám tang của bố mẹ Merete - lần này là ảnh màu. Những hình ảnh báo chí sắc nét và có bố cục đẹp cho thấy cô bé Merete Lynggaard nắm tay cậu em trai đờ đẫn trong khi những cỗ quan tài được hạ huyệt ở nghĩa trang Vestre. Đám tang của gia đình còn lại không có hình ảnh. Nó diễn ra trong sự riêng tư tuyệt đối.

- Chuyện quái gì xảy ra ở đây thế này? - Một giọng nói vang lên. - Là do lõi của các anh nên ở trên kia chúng tôi ngập trong mùi thức ăn Giáng sinh đấy à?

Sigurd Harms, một cảnh sát làm việc ở tầng một, đang đứng ngay ngưỡng cửa. Anh chàng kinh ngạc nhìn tổ hợp màu sắc buông xuống từ những cái đèn trần.

- Chào cậu, Sigurd Mũi Mụn. - Carl vừa đáp vừa đưa cho anh ta một cái bánh bơ cuộn cay nồng. - Cứ đợi đến lễ Phục sinh mà xem. Khi đó chúng tôi sẽ thắp cả hương nữa ấy chứ.

Tin nhắn từ trên lâu bắn xuống cho biết đội trưởng đội trọng án muốn gặp Carl tại phòng ông ta trước giờ ăn trưa. Marcus Jacobsen khoác một bộ mặt u ám và bận rộn khi ngẩng lên từ chỗ tài liệu đang đọc và mời Carl ngồi xuống.

Carl định bụng sẽ xin lỗi thay cho Assad và cam đoan những món thực phẩm chiên rán sẽ không xuất hiện dưới hầm nữa. Nhưng anh chưa kịp nói gì thì hai cảnh sát khác đã bước vào và ngồi xuống, lưng dựa tường.

Anh tặng họ một nụ cười nửa miệng. Anh không nghĩ mình sẽ bị bắt chỉ vì vài chiếc samosa hay gì gì đó, tên gọi của những cái bánh bột cay nồng kia.

Khi Lars Bjørn bước vào cùng với phó chánh thanh tra Terje Ploug, người phụ trách vụ súng bắn đinh, ông đội trưởng đội trọng án đóng hồ sơ lại và quay sang nói với Carl.

- Tôi muốn anh biết là tôi gọi anh lên đây vì đã có thềm hai án mạng khác được phát hiện sáng nay. Thi thể của hai thanh niên đã được tìm thấy trong một tiệm sửa xe hơi ở ngoại vi Sorø.

Sorø, Carl nghĩ thầm trong bụng. Chỗ đó thì liên quan gì với bọn anh nhỉ?

- Cả hai đều được phát hiện với hộp sọ bị găm những chiếc đinh dài chín mi-li-mét bắn ra từ một khẩu súng bắn đinh Paslode. Tôi tin chắc chi tiết này khiến anh nhớ đến một vụ khác, đúng không?

Carl quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, chăm chú dõi theo một đàn chim đang bay qua những tòa nhà ở bên kia đường. Anh có thể cảm thấy ánh mắt của thủ trưởng đang chiếu vào mình, nhưng anh không việc gì phải

vội. Chuyện xảy ra ở Sorø không nhất thiết có liên quan tới vụ việc tại Amager. Ngay cả trên truyền hình người ta cũng đưa tin hiện nay súng bắn đinh đang được sử dụng làm vũ khí.

- Anh nói tiếp được không, Terje? - Giọng nói của Marcus Jacobsen dường như vang lên từ một nơi xa xôi.

- Vâng. Chúng tôi tin rằng thủ phạm chính là kẻ đã gϊếŧ Georg Madsen trong căn lán ở Amager. Carl quay lại, đối mặt với anh ta.

- Vì sao các anh nghĩ như vậy?

- Vì Georg Madsen là chú của một trong hai nạn nhân ở Sorơ. Carl lại quay ra ngắm chim.

- Chúng tôi đã có được mô tả của một trong những kẻ có mặt ở hiện trường lúc án mạng xảy ra. Điều tra

viên Stoltz và tổ công tác của anh ta tại Sorơ muốn anh tới đó trong hôm nay để đối chứng các mô tả của họ với anh.

- Tôi thấy chẳng ích gì. Lúc đó tôi bất tỉnh.

Terje Ploug nhìn Carl với một ánh mắt mà anh không thèm chấp. Anh ta lẽ ra phải đọc báo cáo chi tiết trước, chứ sao lại làm cái trò hề này? Chẳng phải anh đã nhấn mạnh rằng mình bị bất tỉnh từ lúc bị bắn vào thái dương cho đến khi được người ta gắn dầy truyền dịch vào cánh tay ở bệnh viện hay sao? Họ không tin anh chắc? Họ còn có lý do khả dĩ nào để tra hỏi anh đây?

- Trong báo cáo có viết rằng anh đã trông thấy một chiếc áo ca-rô đỏ trước khi trúng đạn. Cái áo. Hóa ra là vì nó à?

- Vậy là họ muốn tôi nhận diện một cái áo? - Anh vặc lại. - Nếu đó là điều họ cần, chỉ việc gửi email một tấm ảnh là xong.



- Họ có những lý do riêng của mình, Carl à. - Marcus xen vào. - Việc anh đi tới Sorø là vì mọi người. Đặc biệt là vì anh.

- Tồi không muốn đi. - Anh liếc nhìn đồng hổ. - Hơn nữa, bây giờ đã muộn rồi.

- Anh không muốn? Carl này, anh có hẹn với chuyên gia tư vấn khủng hoảng khi nào nhỉ? Carl mím môi. Không lẽ ông ta định bụng công bố chuyện đó cho cả trụ sở biết?

- Ngày mai.

- Vậy thì tôi nghĩ anh nên lái xe xuống Sorø hôm nay và những phản ứng của anh đối với vụ nổ súng sẽ được làm mới khi anh đến gặp Mona Ibsen ngày mai. - Marcus mỉm cười giả lả với Carl rồi cầm một tập tài liệu lên từ cái chồng cao nhất trên bàn. - À mà nhân tiện, đây là bản sao hồ sơ mà chúng tôi nhận được từ Sở Di trú liên quan đến Hafez el-Assad. Anh cầm theo mà đọc.

Rốt cuộc Assad là người cầm lái. Anh chàng đã mang theo một vài cái bánh cuộn và bánh tam giác trong một hộp đựng bữa trưa, và lúc này đang tọng chúng vào mồm trong lúc họ lao đi trên quốc lộ E20. Ngồi sau tay lái, anh tỏ ra sung sướиɠ và mãn nguyện, đúng như khuôn mặt tươi cười cho thấy. Anh lúc lắc đầu theo thứ âm nhạc phát ra từ radio.

- Tôi đã có hồ sơ của anh do Sở Di trú gửi đến, nhưng tôi chưa đọc. - Carl nói với Assad. - Sao anh không nói luôn cho tôi biết trong đó có gì nhỉ?

Anh chàng tài xế thoáng nhìn anh với ánh mắt cảnh giác trong khi họ rồ ga vượt mặt một đoàn xe tải.

- Ngày tháng năm sinh, quê quán, và công việc hiện tại của tôi. Có phải ý anh là vậy không, Carl?

- Vì sao anh được cho phép lưu trú dài hạn ở đây? Assad gật đầu.

- Tôi sẽ mất mạng nếu quay về đó. Có vậy thôi. Chính phủ ở Syria không thực sự hài lòng với tôi, anh biết đấy.

- Tại sao vậy?

- Chúng tôi không suy nghĩ giống nhau. Và như vậy là quá đủ.

- Qụá đủ cho chuyện gì?

- Syria là một đất nước rộng lớn. Người ta đơn giản là biến mất.

- OK, vậy nên anh tin chắc mình sẽ bị gϊếŧ nếu quay lại đó?

- Đúng là như vậy đấy.

- Có phải anh làm việc cho người Mỹ không? Assad quay phắt sang phía Carl.

- Tại sao anh lại nói thế? Carl quay mặt đi.

- Tôi cũng chẳng biết nữa, Assad. Tôi chỉ hỏi vậy thôi.

Lần cuối Carl đến đồn cảnh sát già cỗi nằm trên phố Storgade ở Sorø, nó thuộc về quận ló và trực thuộc phòng cảnh sát Ringsted. Giờ đây nó đã thuộc về Nam Zealand và phòng cảnh sát Lolland-Falster, nhưng những viên gạch vẫn đỏ, những cái đầu phía sau quầy vẫn y như vậy, và khối lượng công việc không hề giảm đi. Liệu có ích lợi gì khi đưa người ta từ một cái đơn vị hành chính này sang một đơn vị khác? Đó là một câu hỏi đáng giá triệu đô.

Carl đã chờ đợi một trong số các cảnh sát của đồn yêu cầu anh mô tả lại một lần nữa chiếc áo sơ mi ca- rô. Nhưng hóa ra họ không nghiệp dư đến thế. Tổ tiếp đón gồm bốn cảnh sát đang chờ anh trong một phòng làm việc có kích thước như văn phòng của Assad. Nom họ cứ như thể mỗi người đều bị mất một thành viên trong gia đình sau những biến cố của đêm trước.

- Jorgensen. - Một người trong số họ lên tiếng và chìa tay ra.

Bàn tay anh ta lạnh như nước đá. Vài giờ trước đó, rõ ràng cũng chính tay Jorgensen này đã nhìn vào mắt của hai người đàn ông bị sát hại bằng súng bắn đinh. Nếu quả thực như vậy thì có lẽ đêm qua anh ta đã không hể chợp mắt.

- Anh có muốn đi xem hiện trường không? - Một cảnh sát viên khác hỏi Carl.

- Có cần thiết không?

- Nó không hoàn toàn giống với hiện trường ở Amager. Bọn họ bị gϊếŧ tại một tiệm sửa xe. Một người chết trong khu vực garage và một người chết trong văn phòng. Những cây đinh được bắn từ cự ly gần, vì chúng cắm sâu vào hộp sọ. Phải quan sát thật kỹ chúng tôi mới nhận ra chúng.

Một cảnh sát khác đưa hai tấm hình khố A4 cho Carl. Hình được chụp vào ban đêm. Gần như không thấy được các mũ đinh trên da đầu. Thậm chí máu cũng không chảy nhiều.

- Như anh thấy đấy, cả hai nạn nhân đều đang làm việc. Tay của họ lấm bẩn và họ mặc quần thợ máy.

- Có thiếu mất gì không đấy?

- Tuyệt nhiên không!

Đã lâu lắm Carl không nghe thấy cụm từ đó.

- Họ đang làm việc trên thứ gì? Chẳng phải lúc đó đã là tối muộn hay sao? Họ làm việc trong bóng tối chắc?

Các cảnh sát viên đưa mắt nhìn nhau. Đây rõ ràng là câu hỏi mà họ đang đi tìm lời giải.

- Có đến hàng trăm dấu giày. Chỗ đó trông như chưa bao giờ được lau dọn ấy. - Jorgensen thêm vào. Đây sẽ không phải là một vụ dễ ăn đối với anh ta. - Chúng tôi muốn anh xem xét kỹ thứ này. - Anh ta vừa nói vừa cầm lấy một góc tấm vải đang che phủ mặt bàn. - Đừng nói điều gì mà anh không chắc chắn nhé.

Anh ta gỡ bỏ tấm vải che, để lộ bốn cái áo sơ mi kẻ ca-rô màu đỏ nẳm cạnh nhau, tựa như những anh chàng đốn gỗ đang ngủ trưa trong rừng.

- Trong mấy cái áo này, có cái nào giống với thứ anh đã thấy tại hiện trường ở Amager không?

Đây là màn nhận dạng lạ lùng nhất mà Carl từng tham dự. Chiếc áo nào đây? Chuyện này gần giống như một trò đùa. Anh chưa bao giờ là chuyên gia trong lĩnh vực áo sơ mi. Ngay đến áo của chính mình có khi anh còn không nhận ra nữa là.

- Tôi biết chuyện này rất khó, vì một khoảng thời gian dài đã trôi qua. - Jorgensen nói với giọng mệt mỏi.

- Nhưng nếu anh cố gắng, nó sẽ giúp ích cho chúng tôi rất nhiều

- Nhưng cái quái gì khiến cho các anh nghĩ thằng khốn này vẫn mặc cùng một cái áo sau đó cả mấy tháng trời? Ở cái chốn nhà quê này, các anh lâu lâu cũng mua đô đạc mới chứ hả?

Jorgensen phớt lờ lời bình phẩm của Carl.

- Chúng tôi chỉ đang cố điều tra mọi thứ.

- Và làm thế nào các anh chắc chắn rằng nhân chứng nhìn thấy nghi phạm từ một khoảng cách xa, lại còn trong đêm tối nữa, nhưng vẫn có thể nhớ được cái áo ca rô đỏ chính xác đến mức các anh có thể dùng nó như một manh mối điều tra? Mấy cái áo này giống nhau phát khϊếp lên được! OK, không giống y đúc, nhưng phải có đến hàng ngàn cái áo giống như thế này.

- Nhân chứng làm việc trong một cửa hàng thời trang. Chúng tôi tin tưởng anh ta. Anh ta đã vẽ lại cái áo rất chính xác.

- Vậy anh ta có vẽ lại kẻ đã mặc nó không? Như thế chẳng phải tốt hơn sao?

- Đúng là có. Đó là một bức vẽ không tệ, nhưng cũng không tốt. Vẽ chân dung người đầu có dễ như vẽ một cái áo.

Carl nhìn bức vẽ vừa được đặt xuống trên những cái áo. Một gã đàn ông trông không có gì đặc biệt. Nếu không biết đây là nghi phạm thì anh có thể đoán gã là một người chào bán máy photocopy ở một tỉnh lẻ nào đó. Kính gọng tròn, râu ria nhẵn nhụi, đôi mắt vô tội và cái miệng có nét trẻ thơ.

- Tôi không nhận ra người này. Nhân chứng nói hắn cao bao nhiêu?



- Ít nhất phải một mét tám mươi lăm.

Sau đó, tay cảnh sát cất bức vẽ đi và lại chỉ tay vào mấy cái áo. Carl xem xét từng cái một. Thoạt nhìn thì chúng rất giống nhau.

Sau đó anh nhắm mắt lại và cố hình dung cái áo của hung thủ trong đầu.

- Rồi chuyện gì xảy ra? - Assad hỏi trên đường họ quay trở về Copenhagen.

- Không gì cả. Tôi thấy chúng quá giống nhau. Tôi không thể nhớ ra cái áo chết tiệt đó được.

- Vậy chắc anh đã chụp ảnh chúng để mang về?

Carl không đáp. Anh đang chìm trong suy tưởng. Lúc này đang nhìn thấy Anker nằm chết trên sàn bên cạnh, còn Hardy thì thở hồng hộc trên người anh. Tại sao anh không bắn chúng kia chứ? Tất cả những gì anh cần làm là quay người lại khi nghe thấy tiếng chúng đi vào căn lán, và tất cả chuyện này sẽ không xảy ra. Anker sẽ là người ngồi cầm lái bên cạnh anh thay cho người lạ mặt mang tên Assad kia. Còn Hardy! Hardy sẽ không phải nằm liệt giường trong suốt phần đời còn lại của mình, trời ạ!

- Bọn họ có thể gửi ảnh cho anh ngay từ đầu mà, sếp?

Anh nhìn sang người tài xê của mình. Thỉnh thoảng anh ta lại có ánh mắt ngây thơ đến là quái quỷ bên dưới hàng lông mày rậm rì ấy.

- Đúng rồi, Assad. Dĩ nhiên họ có thể làm thế.

Carl quan sát các biển chỉ dẫn trên xa lộ. Chỉ còn vài cây số nữa là đến Tảstrup.

- Rẽ vào đây. - Anh nói.

- Sao vậy? - Assad hỏi khi hai bánh của chiếc xe bắt đầu lăn vào lối ra của xa lộ.

- Vì tôi muốn xem qua nơi mà Daniel Hale gặp tai nạn.

- Ai cơ?

- Người đã để ý Merete Lynggaard ấy.

- Làm thế nào anh biết được chuyện đó?

- Bak đã kể với tôi. Hale thiệt mạng trong một vụ tai nạn xe hơi. Tôi có mang theo biên bản của cảnh sát đây.

Assad huýt sáo khe khẽ, như thể tai nạn xe cộ là một nguyên nhân chết chỉ dành cho những người rất, rất kém may mắn.

Carl đưa mắt nhìn đồng hồ tốc độ. Có lẽ Assad nên bớt bớt một chút, trước khi cả anh ta lẫn anh đều được đưa vào số liệu thống kê của cảnh sát giao thông.

Cho dù đã năm năm trôi qua từ khi Daniel Hale mất mạng trên xa lộ Kappelev, vẫn không khó để quan sát những dấu vết còn lại của vụ tai nạn. Chiếc xe của anh ta đã đâm vào một tòa nhà sau này được sửa chữa qua quýt, vết khói ám đã được tẩy sạch, nhưng theo như Carl quan sát thì phần lớn số tiền bảo hiểm

bồi thường đã được dành cho việc khác.

Anh nhìn xuôi theo đoạn đường dài. Kẻ xấu số thật đúng là xui xẻo khi đâm thẳng vào tòa nhà xấu xí kia.

Chỉ cần chệch sang trái hoặc sang phải mười mét là chiếc xe của anh ta đã hạ cánh dưới ruộng.

- Thật kém may mắn. Anh thấy thế nào, sếp?

- Phải nói là đen như mõm chó ấy chứ.

Assad đá vào cái gốc cây còn sót lại phía trước bức tường sứt sẹo.

- Anh ta đâm vào cái cây làm nó gãy gập, sau đó lao vào tường và chiếc xe bốc cháy, đúng không?

Carl gật đầu rồi đưa mắt nhìn quanh. Anh biết cách đó không xa có một giao lộ. Hình như chiếc xe kia đã chạy ra từ con đường nhánh, theo những gì anh còn nhớ trong biền bản của cảnh sát.

Anh chỉ tay về phía bắc.

- Daniel Hale lái chiếc Citroen của mình từ trên Tâstrup xuống. Theo lời người tài xế kia và sự đo đạc của cảnh sát, vụ tai nạn xảy ra ở chỗ kia. - Anh chỉ tay vào vạch vôi giữa đường. - Có lẽ Hale đã ngủ gật. Anh ta đã lấn qua vạch và đâm vào chiếc xe chạy ngược lại. Xe của Hale văng ra, trúng vào cái cây và tòa nhà. Mọi chuyện diễn ra chỉ trong nháy mắt.

- Người đi trên chiếc xe kia có việc gì không?

- Xe anh ta rơi xuống đây. - Carl chỉ vào một mảnh đất bằng phẳng bị bỏ hoang từ nhiều năm nay theo chỉ thị của liên minh châu Âu.

Assad lại huýt sáo.

- Và anh ta không hề hấn gì cả?

- Không. Anh ta lái một chiếc 4x4 chắc chắn. Chúng ta đang ở vùng quê mà, Assad. Anh chàng trợ lý trông như thể đã hiểu ra hàm ý của Carl.

- Ở Syria cũng có nhiều xe 4x4 lắm.

Carl gật đầu, nhưng không chú ý lắng nghe.

- Cũng lạ, anh thấy không, Assad?

- Cái gì lạ? Chuyện anh ta đầm vào tòa nhà á?

- Không. Chuyện anh ta chết ngay sau hôm Merete Lynggaard biến mất ấy. Người đàn ông mà cô ấy vừa mới gặp gỡ và có thể đã phải lòng cô ấy. Rất lạ.

- Anh có nghĩ chuyện này có thể là một vụ tự sát không? Anh ta quá đau buồn vì cô ta lao đầu xuống biển chăng? - Assad đổi giọng khi thấy Carl nhìn mình. - Anh ta tự tử vì anh ta là người đã sát hại Merete. Chuyện tương tự như thế vẫn xảy ra mà, sếp.

- Tự sát á? Không. Nếu thế thì anh ta đã tự mình lao thẳng vào tòa nhà kia rồi. Ngoài ra, anh ta cũng không thể là người đã gϊếŧ Merete. Anh ta đang ở trên máy bay vào thời điểm cô ấy biến mất.

- OK. - Assad chạm tay vào bể mặt sứt sẹo của bức tường. - Vậy có lẽ cũng không phải anh ta là người đã đưa lá thư chúc chuyến đi Berlin vui vẻ.

Carl gật đầu và nhìn mặt trời đang bắt đầu lặn.

- Anh có thể đúng.

- Vậy chúng ta đang làm gì ở đây hả Carl?

- Chúng ta đang làm gì ấy à? - Anh đưa mắt nhìn những cánh đồng, nơi các loài cỏ dại mùa xuân đã bắt đầu xầm chiếm. - Tôi sẽ nói cho anh biết. Chúng ta đi điều tra. Đó là điều chúng ta đang làm.